Nguyên tắt coi tướng khuôn mặt trước tiên là phải quan sát một cách tổng quát để có ý niệm sơ khởi về sự cân xứng chung về hình thể rồi sau đó mới đi sau vào chi tiết của từng nét tướng khác nhỏ hơn. Thông thường, người ta thường gặp các danh xưng tổng quát sau đây khi đề cập đến tướng khuôn mặt.
Tam Đình
Ngũ Nhạc
Lục Phủ
Tứ Đậu
Ngũ Quan
Quan sát Tam Đình, Ngũ Nhạc, Lục Phủ ta biết được một cách khái quát sự phối trí của khuôn mặt có cân xứng, thích đáng hay không. Tứ Đậu, Ngũ Quan sẽ giúp ta biết rõ từng nét tướng lồng trong khung cảnh chung của khuôn mặt. Sau đó muốn chi tiết hơn nữa ta thêm vào từng nét tướng để phân qua trọng (tất cả các nét được nói trên gọi là bộ vị trọng yếu )
Muốn biết về những biến cố xảy ra cho cuộc đời của một cá nhân liên quan đến nhiều lĩnh vực sinh hoạt : tật bệnh, tài lộc, anh em, vợ con v.v..ta dựa vào một số bộ vị (hoặc riêng rẽ, hoặc liên kết một số bộ vị ) đặc biệt gọi riêng là các cung .
Vì Ngũ Quan có vai trò cực kỳ trọng yếu trong tướng học, nên sau khi khảo sát sơ lược, ta cần đi sau vào từng chi tiết đặc thù, nên phần đó được tách thành 5 chương riêng. Do đó chương này đặc trọng tâm vào việc giới thiêu tổng quát về toàn thể khuôn mặt xuyên qua các tiết mục sau đây:
TAM ĐÌNH
1- VỊ TRÍ CỦA TAM ĐÌNH
Tướng học Á Đông chia khuôn mặt thành 3 phần : Thượng Đình, Trung Đình và Hạ Đình. Thượng Đình: Từ chân tóc đến khoảng giữ 2 đầu lông mày. Trong các bộ vị của Thượng đình quan trọng nhất là Trán.
Trung Đình : từ khoảng giữa 2 đầu lông mày đến dưới 2 cánh mũi. Các bộ phận quan trọng của Trung Đình là: Mũi, cặp Mắt , Lưỡng Quyền , 2 tai và 2 Lông Mày. Nhưng trong các sách tướng, người ta trú trọng nhiều nhất là bộ phận trung ương là Mũi.
Hạ Đình : Phần còn lại của khuôn mặt tức là phần từ phía dưới 2 cánh mũi đến cằm.
2- Ý NGHĨA CỦA TAM ĐÌNH
Tam Đình có 2 ý nghĩa tổng quát về vận mạng và về khả năng.
a. Về mặt mạng vận:
Theo quan niệm siêu hình của người xưa thì tam đình tượng trưng cho tam tài( 3 thể trọng yếu nhất trong vạn vật) là THIÊN, ĐỊA, NHÂN
Trán thuôc Thiên Đình, tượng trưng cho Trời, trời càng cao, rộng, tươi càng tốt cho nên người ta lấy sự kiện trán cao, rộng và tươi làm quí. Nói chung phần đông kẻ nào có 3 điều kiện này thuộc loại quí tướng, sơ vận suông sẻ .
Bộ vị quan trọng nhất của Trung Đình là Mũi , tượng trưng cho Người. Cơ cấu con người có rộng, dài và cân xứng ,mới tốt, nên mũi cần phải ngay thẳng hoặc tròn trịa, và phải đều đặn cân xứng.
Kẻ hội đủ điều kiện trên được gọi là " hữu nhân giả thọ"có triển vọng sống lâu trung vận gặp nhiều hanh thôgn hơn người thường .
Cuối cùng là phần Hạ Đình tượng trưng cho Đất và bộ vị quan trọng nhất là cằm. Vì đất cần phải đầy đặn, vuông vứt mới tốt nên quan niệm cổ điển đòi hỏi, cằm phải vuông, đầy, chủ về hậu vận sung túc.
Nói chung, trong quan điểm tướng học Á - Đông, Thượng Đình dài mà nẩy nở hoặc vuông mà rộng là triệu chứng quí hiển ; Trung Đình mà ngay thẳng , cao ráo và dáng vẻ thanh tú về trường thọ ; Hạ Đình bằng phẳng đầy đặn không lệch lạc nhất là vuông vứt là điềm báo trước sẽ được hưởng vận số tốt lúc về già.
Nếu Thượng Đình nhọn hẹp hoặc khuyết hãm thì hay bị tai họa , khắc cha mẹ hoặc tính nết ti tiện. Trung Đình mà ngắn hoặc bị lệch, hãm thường là kẻ bất nhân bất nghĩa, kiến thức nông cạn hẹp hòi đồng thời cũng là dấu hiệu hậu vận hao tốn , lênh đênh. Hạ đình dài nhưng hẹp hoặc nhọn hay thiếu bề dày thì điền trạch khiếm khuyết, tuổi già cực khổ .
Nếu Tam Đình cân xứng thì có thể nói tướng mạo của kẻ thượng đẳng. Cho nên tướng thư có nói "Tam đình bình ổn, nhất sinh y thực vô khuy" ngiã là 3 phần của khuôn mặt mà được tương xứng đều hợp, không bị khuyết hãm thì cả đời không phải lo đến cơm áo .
b. Về mặt khả năng:
Một số tướng gia khác, nhất là những người thuộc học phái Nhật Bản không mấy chú trọng đến ý nghĩa vận mạng của Tam Đình mà chỉ căn cứ vào cốt tướng học để tìm khả năng con người. Theo nhận định của họ thì:
- Thượng Đình: biểu dương cho trí lực
- Trung Đình : biểu dương cho khí lực
- Hạ Đình : biểu dương cho hoạt lực
Khi tiền não bộ của con người phát triển, óc làm việc nhiều nên Thượng Đình nẩy nở tạo ra vầng trán rộng và cao.
Khi trung não diệp phát triển rõ rệt và lấn áp các bộ phận khác của não thì Trung Đình nẩy nở rõ rệt nhất: Sự tăng trưởng của trí tuệ nhường chổ quyết định cho sự vận dụng của bắp thịt.
Ngược lại khi não bộ phát triển độc dị thì hạ đình cũng phát triển qua mức và gây ra cảnh Hạ Đình vừa dài vừa rộng lấn lướt các phần kia.
Nếu cả 3 phần đều phát triển cân phân theo thuật ngữ "Tam đình bình ổn " thì con người sẽ quân bình về cả 3 mặt trí lực, động lực và hoạt lực : con người sẽ có nhiều triển vọng thành công về bất cứ lãnh vực gì trong việc mưu sinh hằng ngày. Do đó, cổ tướng học đã rất có lý khi nhận định rằng người có tam đình bình ổn không phải khốn đốn vì cơm ăn áo mặc.
Theo nhà tướng học Tô Lãng Thiên, thượng đình biểu thị vận tiên thiên . Trung đình giúp ta quan sát các trạng thái hoạt động hậu thiên . Còn Hạ đình giúp ta trắc định kết quả khả hữu của các hoạt động của con người( thành hay bại, xấu hay tốt v.v...). Tóm lại :
Thượng đình cho biết những dữ kiện thiên phú của con người như trí thức, nghệ thuật , cảm xúc, tinh thần v.v...Nếu trán cao rộng kẻ đó được hưởng sự may mắn tiên thiên, tức là khỏi phải nhọc công sáng tạo . Nếu trán lũng hoặc lệch, hãm là triệu chứng tiên thiên cho biết thời gian ấu thơ bị khốn quẫn về một hay nhiều lãnh vực nào đó, phần trí lực xúc kém .
Trung đình biểu thị cho sự phấn đấu của con người từ thưở thanh niên , có trí khôn đầy đủ tương đối. Phần đáng lưu ý nhất là mũi và lưỡng quyền. Theo tác giả Tô Lãng Thiên , khu vực mũi và lưỡng quyền, ngoài ý nghĩa tiền của, vật chất còn cho ta biết tài năng tháo vác của con người trong cuộc vật lộn để mưu sinh. Nếu Trung đình đầy đặn, cân xứng, mũi thẳng, chép mũi tròn, 2 cánh mũi có thế thì tuy thiên đình bị lồi lõm sơ vận linh dinh cực khổ nhưng nhờ nổ lực cá nhân bổ cứu mà cuối cùng trung vận có thể phấn chấn lên được.
Tóm lại khu vực Trung đình phát triển tốt đẹp có thể bổ túc cho khiếm khuyết trí tuệ tiên thiên. Nhờ sự quan sát khu vực Trung Đình, ta đoán được phần nhận định đối với việc xoay xở định mạng
Hạ định là kết quả tổng hợp của Thượng đình và Trung đình. Việc quan sát khu vực Hạ đình giúp ta có thể đoán được kết quả của việc vận dụng trí tuệ và nổ lực cá nhân.
Hạ đình bao gồm Thực - thương, Lộc - thương, Pháp - lệnh, Cằm và nhân trung biểu thị sự cố gắng lúc tuổi già. Nói rõ hơn thì Lưỡng - Thương bao hàm sự thu nhập , cằm cho biết ảnh hưởng của sự sinh hoạt xã hội đã ảnh hưởng và tạo thành kết quả nơi cá nhân đó ra sao.
Trong lúc xem tướng phải nhìn toàn bộ khu vực Hạ đình để tìm sự nhất quán . Sự phong mãn phải nhất quán thì mới chắc chắn là phúc tướng . Nếu chỉ có hậu não bộ phát triển mà khu vực hạ đình không tương xứng , thì đó chỉ là ước vọng của vật chất khôgn bao giờ thực hiện được. Ngược lại, hậu não bộ không mấy phát triển mà hạ đình sung mãn thì kết quả thực tiễn do nổ lực cá nhân đem lại vượt quá ranh giới của tiên thiên và chứng tỏ sự thành công của cá nhân đó phần lớn là do nổ lực nhân sự mà có, sự may mắn hoặc giúp đỡ của tha nhân đối với hạn tướng này không đóng vai trò đáng kể.
Nhất quán là từ trên xuống dưới, từ trái qua phải đều vững chắc, không lệch lạc
Ngũ nhạc là 5 dãy núi lớn trong địa lý học cổ điển Trung - Hoa. Người Tàu có thói quen so sánh mặt người với mặt đất của Trung nguyên nên đã địa lý hóa các bộ vị nổi bật nhất của khuôn mặt thành 5 danh hiệu của 5 dãy núi chính để rồi căn cứ vào hình dág , vị thế liên hoàn của chúng mà đán tương lai, quá khứ của con người .
- Trán tượng trưng cho dãy núi phía nam nên gọi là nam nhạc (tên riêng là Hoành Sơn)
- Cằm tượng trưng cho dãy núi phía bắc nên gọi là Bắc nhạc (tên riêng là Hằng Sơn)
- Quyền trái tượng trưng cho dãy núi phía Đông nên gọi là Đông nhạc (tên riêng là Thái Sơn)
- Quyền phải tượng trưng cho dãy núi phía Tây nên gọi là Tây nhạc ( tên riêng là Hoa Sơn)
- Mũi tượng trưng cho dãy núi chính ở trung ương nên mệnh danh là Trung nhạc (tên riêng là Tung Sơn).
ĐIỀU KIỆN ĐẮC DỤNG CỦA NGŨ NHẠC
Điều kiện tối thiểu của ngũ nhạc là phải có sự TRIỀU CỦNG (đôi khi gọi là TRIỀU QUI) nghĩa là quần tụ theo một thế ỷ dốc liên hoàn , qui về một điểm quan trọng nhất. Theo quan niệm của khoa địa lý phong thủy Á- Đông, sự triều củng khiến cho long mạch (nguyên khí tinh hoa của tạo hóa trong một khu vực nào đó ) có thể phát huy được tất cả uy lực tốt đẹp. Trong Ngũ nhạc , Tung nhạc là chủ yếu, là trung tâm điểm của cả hệ thống nên khí thế của nó phải bao trùm tất cả các nhạc khác . Theo sự qui định của tướng thuật, mũi là trung tâm của khuôn mặt, lại tượng trưng cho phần nhân sự Trong Tam tài nên được gọi là long mạch .
Về phương diện xem tướng, ngũ nhạc tối kỵ ba khuyết điểm sau:
* Quân sơn vô chủ (Bốn núi không có sự triều củng đối với trung ương). Nói khác đi, Tung nhạc bị khuyết, hãm hay quá thấp, quá nhỏ so với các nhạc khác.
* Cô phong vô viện (Ngọn chính giữa qua tốt nổi bật lên một cách trơ trọi không được sự phát triển của các ngọn khác hổ trợ ). Điều này chủ yếu vẫn là mũi. Mũi tốt mà trán, cằm, lưỡng quyền khuyết hãm thì coi là không đáng kể.
* Hữu viện bất tiếp (Có vẻ có sự hổ trợ của các ngọn khác nhưng xét kỹ thì lại không có ). Điều này có nghĩa là một hay nhiều ngọn núi chung quanh bị lệch hay khuyết khiến cho toàn thể liên hoàn hộ ứng của ngũ ngạc bị đổ vỡ.
Phạm vào 3 khuyết điểm nói trên, sách tướng mệnh danh là "long mạch" không có thế, khiến cho "long mạch"không phát huy được . Đôi khi , không những long mạch khong phát huy mà còn có thể trở thành xấu nữa.
3. NHỮNG YẾU TỐ BÙ TRỪ
Phép luận tướng phân tướng người thành 2 loại chính là Nam và Bắc tướng . Nam tướng là tướng người sinh trưởng ở miền nam trung hoa .Tại đây, khí hậu chính là nóng có đặc điểm chính là Hỏa vượng .Nếu Hỏa tinh (trán) hay nói theo từ ngữ ở đây là Nam nhạc là bộ vị chủ yếu hỏa của người phương nam được phát triển hợp tiêu chuẩn thì dẫu các ngon khác có hơi thiếu tiêu chuẩn đôi chút (Miễn là không khuyết hãm ,đặc biệt là Trung nhạc) thì cũng có thể lấy bộ vị chính yếu toàn hảo làm vật hóa giải [24]
Nếu trán của người phương nam không bị thương tổn thì tinh thần và bản thân sự nghiệp hanh thông vượng thịnh. Theo nguyên tắc ngũ hành tương sinh thì Hỏa sinh Thổ (Hỏa chỉ trán, Thổ chỉ mũi) nên nếu Tam nhạc đắc thế thì dù Trung nhạc không hoàn toàn tốt đẹp cũng có thể lướt qua được. Tuy nhiên sự đắc cách của Nam nhạc chỉ phần lớn háo giải các điều bất thường về mạng vận do mũi gây ra mà thôi, nó khôgn hóa giải được tâm địa. Nói khác đi kẻ sinh ở phương nam có trán tốt và mũi xấu vì lệch, thấp thì mạng vận vẫn có thể khá nhưng tâm địa giữ nguyên những khuyết điểm do mũi hoặc các bộ vị khác thuộc Ngũ nhạc gây ra.
Đối với người phương bắc, bộ vị chủ yếu là Địa các mà cằm là chính. Vì bắc phương là chính thổ nên tối kỵ . Thổ tinh (mũi) khuyết hãm. Do đó đối với họ khí mạch của bắc nhạc liên hệ chặc chẽ với khí mạch của Trung nhạc. trung nhạc khuất khúc, nghiêng lệch thì Bắc nhạc có tốt cũng bị thăng giáng thất thường về mạng vận.
Sự tổng hợp tốt nhất trong cổ tướng học thực nghiệm là cách "Thủy, Hỏa thông minh" tức là Bắc phương nhân, ngoài bản vị tốt đẹp toàn hảo, còn được Nam nhạc toàn hảo cộng thêm ngũ quan đoan chính, Nam phương nhân, ngoài Nam nhạc toàn hảo, ngũ quan thanh tú còn được địa các nẩy nở vuông vức và triều củng.
Đông và Tây nhạc (2 quyền) cũng cần phải phối hợp tương xứng với Trung nhạc có thế. Đông và Tây nhạc (đối với đàn ông) cần phải cao nở và mạnh mẽ. Tối kỵ nhỏ, nhọn và lộ xương, lem gốc hoặc cao hơn các bộ vị của Trung nhạc hoặc chỉ được lượng mà hỏng về phẩm.
Tóm lại, ngũ nhạc chỉ đắc thế khi có sự tương phối, triều củng, minh lãng về cả phẩm lẫn lượng, đồng thời Ngũ nhạc còn phải được Tứ đậu (mắt, mũi, tai, miệng) toàn hảo thì mới có thành đại dụng được. trong Ngũ nhạc nếu có một ngọn không hợp cách thì dẫu ngũ quan có tốt cũng khó đại phát.
4. SỰ KHUYẾT HÃM CỦA NGŨ NHẠC:
Ngoài 3 khuyết điểm căn bản kể trên chung cho Ngũ nhạc (quân sơn vô chủ, cô phong vô viện, hữu viện bất tiếp) mỗi Nhạc còn phải có những khuyết điểm sau đây:[25]
* Nam nhạc: Bị coi là khuyết hãm khi mí tóc lởm chởm, tóc mọc quá thấp khiến trán thành thấp, tóc mọc che lấp 2 bên khiến trán thành hẹp, trán có loạn văn như dấu vết bò, xương đầu không đắc cách, xương trán lồi, ấn đường có sát khí, trán có vết hằn một cách bất thường
* Trung nhạc : Bị coi là khuyết hãm khi sơn căn bị gãy, có hằn, mỏng manh ,có nốt ruồi ,sóng mũi bị thương tích thành sẹo, lệch, lồi lên lõm xuống, lỗ mũi bị lộ và hướng lên trên, mũi nhỏ và ngắn, 2 cánh mũi không nổi cao.
Bị coi là khuyết hãm tương đối khi chỉ có mũi rất cao, rất tốt mà bốn bộ phận khác thuộc Ngũ Nhạc quá thường (cô phong vô viện) chủ về nghèo khổ phá tán, thành bại thất thường.
* Đông và Tây Nhạc: Bị coi là hãm khi 2 quyền bị lõm xuống, nhỏ và nhọn, trơ xương, có nhiều vết sẹo hay nốt ruồi tàn nhang rõ rệt, quyền thấp hoặc có diện tích nhỏ mà không có khí thế (không có xương ăn thông sang khu vực tai), lưỡng quyền cao thấp không đều v.v...
* Bắc Nhạc: Bị coi là hãm khí xương quai hàm nhọn, hẹp, cằm lệch, miệng túm, môi dày mỏng không đều, không râu ria, có các nốt ruồi xấu, râu vàng và khô, Nhân trung nông cạn hoặc lệch và mép miệng trề xuống...
Nếu mỗi Nhạc tránh được khuyết điểm cơ hữu kể trên, và nếu cả 5 nhạc triều củng thì goi là ngũ nhạc đắc cách. TRẺ DÙNG SỨC KHỎE KIẾM TIỀN-GIÁ DÙNG TIỀN MUA SỨC KHỎE
NHỮNG GÌ CON NGƯỜI KHÔNG NGHĨ TỚI LẠI XẢY RA TRONG ĐỜI
Đậu là một từ ngữ Trung Hoa chỉ mương nước, chỉ có nước chảy. Tứ Đậu là 4 dòng nước chảy bao gồm: Giang, Hà, Hoài, Tế.Cả 4 chữ trong ngôn ngữ Trung Hoa in đều có nghĩa chung là dòng sông.
Cũng vẫn cái lối mượn thiên nhiên để ví vào con người cho dể hiểu nên người Tàu, trong lãnh vực diện tướng học, đã địa lý hóa 4 bộ phận: Tai, miệng, mắt, mũi thành ra Giang, Hà, Hoài, Tế.
- Mũi có tên riêng là Tế Đậu
- Mắt có tên riêng là Hoài Đậu
- Miệng có tên riêng là Hà Đậu
- Tai có tên riêng là Giang Đậu
Tại sao 4 bộ phận trên được ví như 4 dòng nước? Sách xưa đã giải thích lối hình dung này như sau:
Nước lúc nào cũng chảy về biển. Bộ óc được ví như biển. Bộ óc là nơi tập trung các tiếp thu của tai, mắt, mũi, miệng như biển gôm nước của 4 dòng sông, cho nên bộ óc được gọi là não hải, còn mắt, mũi, tai, miệng được gọi là Tứ đậu
2.ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA TỨ ĐẬU:
Nước muốn lưu thông dễ dàng thì lòng sông phải sâu, mặt sông phải rộng. Do đó, tướng học đòi hỏi Tứ Đậu phải có những điều kiện sau:
Hà Đậu (miệng) phải vuông vức, lăng giác rõ ràng,lớn, rộng. Nếu như miệng quá hẹp, môi quá mỏng, ví như dòng sông nông cạn,nước khó thông và chảy không tới biển cho nên vãn niên phúc thọ hư ảo
Giang Đậu (tai) cần rộng và sâu, nghĩa là lổ tai phải sâu và rộng, hình thể chắc chắn, đầy đặn, chủ về thông minh, gia nghiệp ổn định.
Hoài Đậu ( mắt) cần phải sâu dài, ánh mắt trong sáng, hình thể thon dài, lòng đen, lòng trắng, phân minh, đồng tử linh động, chủ về thông minh, quí hiếm.
Tế Đậu (mũi) thông suốt, tức là lổ mũi phải kín đáo, đầu mũi phải đầy, sống mũi phải thẳng, khôgn cong, không lồi lõm, hai cánh mũi phải đầy, nở và cân xứng thì cuộc đời sung túc, khôgn lo đói rách.
Ở đây có một điểm rất trọng yếu cần phải lưu ý, đó là Nhân trung (phần lõm sau chạy dài phía dưới chõm mũi tới chính giữa môi trên), vì Nhân trung được coi là mạch chính của Tứ đậu. Nếu Tứ đậu đều minh hiền (tốt và rõ ràng) mà Nhân trung hẹp, mờ, khuất, bị vạch ngang làm cho mất hẳn mỹ quan hoặc trên rộgn dưới hẹp, trên sâu dưới nông, đều có tác dụng làm nghẽn tắc Tứ đậu khiến dòng nước không lưu thông dẽ dàng. Cái đẹp của Tứ đậu vì thế bị giảm thiếu. Cho nên người ta đòi hỏi Nhân trung phải sâu, trên vừ phải, dưới rộng và rõ ràng, dài là vì cớ đó.
Lục phủ (6 phủ) là danh hiệu dùng để chỉ 3 cặp xương ở hai bên mặt (h.2).
Hai khu vực xương nổi cao ở hai bên phía trên ở dưới đuôi chân mày chạy lên sát chổ chân tóc gọi là Thiên thương thượng phủ (h.2/1)
Cặp xương lưỡng quyền thuộc khu vực Trung đình gọi là Quyền cốt Trung phủ (h.2/2)
Hai phần 2bên mang tai tiếp giáp với lưỡng quyền và xuống phía dưới gọi Tai cốt hạ phủ, vì khu vực này thuộc về hạ đình (h.2/3 )
Phủ có nghĩa là cái kho chứa đồ vật của cải ,nên dưới nhãn quan tướng học ,Lục Phủ cho ta biết một cách khái quát về tài vận.Sáu bộ phận đó có xương và thịt cân xứng, đầy đặn thì cũng giống như kho chứa tài sản, chỉ sự sung túc. Sách Nhân luân đại thống phú của Trương Hành Giản đã nói ''Nhất Phủ tựu, thập tải phong phú'' có nghĩa là một Phủ đầy đặn thì giàu có no năm. Thực ra đây chỉ là một câu nói có ý nghĩa tượng trưng chứ không nhất thiết là no răm. Nó chỉ có nghĩa là một Phủ mà đầy đặn thì kẻ đó có khả năng phú túc.
Trong phép quan sát Lục Phủ, phải lấy xương làm điểm chủ yếu : xương nẩy nở đúng cách, mạnh mẽ cân xứng là tốt, khuyết hãm là xấu. Kẻ có Lục Phủ hoàn mỹ là kẻ mà khuôn mặt (bên phải lẩn bên trái)tạo thành một thế nhất quán tức là xương thị chắc chắn vừa phải, thịt không lấn lướt xương, xương không quá nhiều đối với thịt, khi sắc sáng sủa tươi mát
Lục Phủ cũng liên quan đến thời gian thụ hưởng. Thiên thương Thượng Phủ sung mãn tươi tắn tượng trưng cho kẻ được hưởng của của cải tiền nhân lưu lại hoặc được cha mẹ anh chị em chu cấp. Trung Phủ hoàn mỹ, điển hình cho mạng vận cá nhân lúc trung niên tự mình sáng tạo thành sự nghiệp gia sản. Hạ Phủ sung mãn tươi tắn là điềm báo trước, lúc già, sinh kế và gia tài phát triển khả quan .
Thượng Phủ ứng với thiếu niên, Trung Phủ ứng với trung niên và Hạ Phủ ứng với vãn niên . vãn
Nếu Lục Phủ khuyết hãm, hắc ám thì phải giải đoán ngược lại .
( Đây là nói trong trường hợp người không gầy không mập, khỏe mạnh tự nhiên. Nếu quá gầy thì lex tất nhiên xương phải nhiêù hơn thịt. nếu quá mập thì thịt nhiều hơn xương. Trường hợp cần phải lưu ý là người mập mà mặt ốm, Lục Phủ trỏ xương ;người ốm mà mập, Lục Phủ trì trệ.Lúc đó phải coi là Lục Phủ liệt cách .)
Cổ tướng kinh bàn về Ngũ quan có câu "Trời lấy ngủ tinh để biểu lộ hình thể ; Đất lấy 5 núi để định khu vực ; người thì dựa vào Ngũ quan để định quý, tiện ,bần ,phú " .Sách Nhân luân đại thống phú bàn về Ngũ quan có câu "Nhất quan thánh, thập niên quý hiến". như vậy, đủ rõ trong tướng học, ngũ quan đóng một vai trò hết sức quan trọng. Cũng bởi lý do trên mà sách này dành 5 chương đề để chuyên khảo chi tiết từng Quan một QU
2.- ĐIỀU KIỆN TỐI HẢO CỦA NGŨ QUAN
Đối với phép quan sát Ngũ quan ,tướng học có câu sau đây đủ để tóm tắt những điều kiện tổng quát của kẻ có Ngũ quan toàn hảo:"Ngũ quan cần phải Minh lượng và đoan chíng nói về hìng dạng .
Từ ngữ Minh lượng bao gồm :
-Thanh khiết
- Sáng Sủa
-Có thành khí
-Trang nhã
Còn Đoan chính có nghĩa là :
-Ngay thẳng
-Cân xứng và lớn nhỏ thích nghi
-Hình thể rõ ràng (chỗ nào cần đầy thì đầy,mỏng thì phải mỏng;đen trằng phân biệt v.v...tùy theo Quan đó là Mắt, Tai, Mũi, Miệng hay long Mày).
Đó là hai tổng -tắt căn bản trong phương pháp quan sát Ngũ quan . TRẺ DÙNG SỨC KHỎE KIẾM TIỀN-GIÁ DÙNG TIỀN MUA SỨC KHỎE
NHỮNG GÌ CON NGƯỜI KHÔNG NGHĨ TỚI LẠI XẢY RA TRONG ĐỜI